GS Stephen Walt dạy quan hệ quốc tế tại trường Hành chính Kennedy, Đại học Harvard. Ông sẽ sang Việt Nam tham dự và phát biểu tại Lễ công bố 500 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam vào ngày 15/01 tới.
Tôi cũng đưa ra lưu ý rằng con đường dẫn tới vị trí siêu cường khu vực của Trung Quốc sẽ gian nan hơn so với con đường tương tự mà Mỹ đã đi qua, bởi khi đó tại Tây bán cầu không có cường quốc nào khác và cũng không tồn tại những rào cản lớn nào đối với sự bành trướng của Mỹ trong khu vực Bắc Mỹ. (Dĩ nhiên, Anh cũng có ảnh hưởng lớn tại Canada, song nhìn chung, thời điểm đó nước này vẫn đang bận tâm tới những sự kiện ở các nơi khác).
Trong khi đó, xung quanh Trung Quốc lúc này lại có tới vài cường quốc cỡ trung. Do vậy, một câu hỏi lớn đặt ra ở đây là liệu các quốc gia châu Á khác có muốn trở thành đối trọng với sức mạnh đang lên của Trung Quốc hay không, hay họ muốn "liên minh" với quốc gia này. Nếu giả thiết ban đầu đúng, việc kiềm chế Trung Quốc sẽ tương đối dễ; nhưng nếu giả thiết thứ hai đúng, sự lan tỏa từ từ của "tầm ảnh hưởng" của Trung Quốc có nhiều khả năng khó ngăn chặn.
Một điểm đáng ngạc nhiên là, tờ Times gần đây có đăng tải một bài viết khá thú vị về tầm ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc ở Indonesia. Rất nhiều người dân Indonesia hiện đang đổ xô đi học tiếng Quan thoại, gác lại thái độ ác cảm với người Trung Quốc do các biến cố trong lịch sử. Xu hướng này vừa phản ánh sự trỗi dậy về tầm ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc lại vừa cho thấy nỗ lực của nước này trong việc đưa tiếng Trung ra bên ngoài lãnh thổ quốc gia.
Vậy châu Á sẽ làm đối trọng hay làm liên minh với Trung Quốc? Trong bài viết trước về các liên minh, tôi có nói rằng xu hướng đối trọng sẽ phổ biến trên chính trường quốc tế, song các quốc gia yếu và/hoặc bị cô lập có lẽ sẽ nghiêng theo lựa chọn liên minh hơn. Do không thể tác động gì nhiều đến kết quả của các cuộc tranh đua mà lại có thể hứng chịu những hậu quả nặng nề từ đó, nên họ buộc lòng phải chọn theo bên nào có khả năng giành phần thắng.
Và trong khi các cường quốc thường quan tâm tới những lợi ích trên toàn cầu, các nước nhược tiểu lại lo lắng nhất về cán cân sức mạnh ngay trong khu vực của mình. Họ có thể đứng lên chống lại một quốc gia mạnh hơn nếu được đảm bảo rằng sẽ có "ông lớn" khác hậu thuẫn; nhưng một quốc gia yếu và đơn độc có lẽ sẽ chỉ còn cách "khom lưng" trước một "gã láng giềng" lớn mạnh hơn mình. Đó cũng là quá trình ra đời của "tầm ảnh hưởng".
Logic này hé lộ cho chúng ta biết điều gì về các sự kiện ở Đông Á trong tương lai? Một mặt, triển vọng đối trọng có lẽ tương đối khả quan. Tuy rằng Trung Quốc hiện có tiềm năng sức mạnh lớn nhất ở châu Á, nhưng khó có thể coi một số người bạn láng giềng của họ là "nước yếu" được.
Nhật Bản có nền kinh tế lớn thứ ba thế giới (tuy vẫn đang trải qua một giai đoạn phát triển trì trệ kéo dài), có năng lực hạt nhân tiềm tàng, và có sức mạnh quân sự riêng tương đối đáng nể. Mặc dù có dân số già, song vẫn khó mà đe dọa nổi Nhật Bản.
Việt Nam chưa bao giờ là một quốc gia dễ khuất phục, Ấn Độ có một tỷ dân và có năng lực hạt nhân, còn những quốc gia khác như Indonesia và Singapore thì sở hữu nguồn bất động sản quý giá, riêng Singapore còn có sức mạnh quân sự rất lớn nữa.
Ngoài ra, dù có mạnh hơn hiện nay gấp nhiều lần đi chăng nữa thì Trung Quốc vẫn sẽ gặp khó khăn trong việc phóng tầm sức mạnh của mình sang các nước láng giềng, bởi họ sẽ phải vận dụng cả các năng lực hải quân, không quân, và thủy quân, chứ không chỉ riêng sức mạnh trên đất liền.
Và với một thực tế: Mỹ quan tâm tới việc ngăn chặn Trung Quốc thực hiện ước mơ làm bá chủ khu vực, thì các mục tiêu tiềm năng mà Trung Quốc muốn vượt qua để bước lên ngai vị thống trị sẽ có đồng minh là một siêu cường đứng sau sẵn sàng ra tay hỗ trợ.
Nhưng mặt khác, Mỹ cũng sẽ gặp một số rào cản lớn trong nỗ lực duy trì một liên minh phòng thủ tại Đông Á. Thứ nhất, các liên minh phòng thủ luôn có những khó khăn khi phối hợp hành động, bởi các thành viên trong liên mình đều muốn đùn đẩy gánh nặng chính sang nhau. Đây là một kẽ hở mà một cường quốc mới nổi tinh nhạy có thể khai thác; họ có thể áp dụng chiến thuật "chia để trị" trong lúc các đối tác (giả định) vẫn mải tranh cãi về chiến lược và chia sẻ trách nhiệm.
Thứ hai - đây cũng là nguyên nhân gần gũi hơn - là các khó khăn trong việc xác định mức độ hỗ trợ mà Mỹ cần cung cấp cho các đối tác châu Á nhằm giữ họ về "phe" mình. Nếu hỗ trợ quá ít, một số nước có thể sẽ bị Bắc Kinh "lôi kéo" vào một thỏa thuận nào đó. Nếu hỗ trợ quá nhiều, các đồng minh châu Á sẽ tha hồ mà "hưởng sái" của chú Sam.
Cộng thêm vào đó là nỗi ám ảnh kéo dài của Mỹ về sự tin cậy của liên minh và một thực tế rằng những liên minh này có động cơ để cường điệu hóa khả năng bắt tay với Trung Quốc (nhằm thuyết phục Washington xắn tay vào làm nhiều hơn nữa). Với tất cả những lý do trên, Mỹ rất có khả năng sẽ thực hiện những cam kết quá đà.
Thứ ba, như bài viết trên tờ Times đã đề cập tới, chiến lược "sáng sủa" nhất của Trung Quốc sẽ là đối thoại nhẹ nhàng, tập trung vào xây dựng các mối quen hệ về kinh tế và văn hóa với các nước láng giềng. Chính sách ngoại giao "mạnh bạo" của Trung Quốc là điều kiện thuận lợi giúp Washington duy trì được những mối quan hệ đối tác chặt chẽ ở châu Á; trong khi đó, nếu Trung Quốc kiên trì sử dụng "sức mạnh mềm", thì một số quốc gia châu Á có thể sẽ nghĩ rằng Bắc Kinh chính là làn sóng trong tương lai, và rằng sự thống trị của Trung Quốc cũng không có gì là quá đáng sợ cả. Ít nhất thì điều đó cũng khiến Mỹ phải nỗ lực hơn để bảo vệ vị trí hiện nay của mình.
Nói tóm lại, bài phân tích này muốn nêu lên một quan điểm rằng việc quản lý các mối quan hệ liên minh tại châu Á sẽ đòi hỏi nhiều sự chú ý cũng như công sức hơn so với việc quản lý các mối quan hệ tương tự ở châu Âu trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Nhiệm vụ này thậm chí sẽ còn gian nan hơn nhiều nếu chính phủ Mỹ lại đầu tư quá nhiều thời gian và tâm trí cho những khu vực có tầm quan trọng chiến lược "siêu vô bổ" như... Afghanistan chẳng hạn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét